Khi một bác sĩ bị trầm cảm và nhận được Sự Chữa Lành
Oneway.vn – Trong suốt một năm làm việc ở khoa Hồi sức tích cực, tôi luôn sống trong nỗi lo sợ nơm nớp bởi bi kịch có thể ập đến bất cứ lúc nào.

Mỗi sáng, tôi lại cặm cụi điều chỉnh máy thở, thay đổi liều thuốc truyền, cố gắng đến tuyệt vọng để giữ bệnh nhân sống thêm chút nữa. Nhưng mọi nỗ lực đều vô ích, buổi chiều tôi lại phải bước vào phòng họp, đối diện với những gia đình đỏ hoe mắt vì nước mắt, để báo tin dữ cho họ. Giọng tôi nhiều lần nghẹn lại khi phải nói về giới hạn của y học, mô tả tường tận những giây phút cận kề cái chết, và cố gắng trao đi vài lời an ủi ít ỏi. Có những lúc khắc nghiệt đến mức tôi phải báo tin dữ cho gia đình bệnh nhân đến đến ba bốn lần mỗi ngày.
Dù những ngày ở ICU chất chứa biết bao nặng nề và đau buồn, nhưng thử thách lớn nhất của tôi lại chờ đợi trên con đường lái xe về nhà mỗi tối. Tối nào tôi cũng đi ngang qua một lối đi dẫn lên con đường lên núi. Tôi biết rằng, ở cuối con đường đó, có một cây cầu bắc qua sông. Và tối nào tôi cũng phải đấu tranh với chính mình để không rẽ vào lối đó, lái xe đến cây cầu, và gieo mình xuống dòng sông lạnh ngắt.
Sống mà dường như đã chết
Là một bác sĩ, tôi biết rất rõ khi trầm cảm âm thầm len lỏi vào cuộc sống mình. Trong những năm học y, tôi đã nghiên cứu về các dấu hiệu và triệu chứng của căn bệnh này. Tôi hiểu rõ sự đan xen phức tạp giữa yếu tố thần kinh, những biến cố trong đời sống và tâm trạng. Tôi cũng nhớ như in những bệnh nhân mình từng trò chuyện, những người đã rời bệnh viện với nụ cười rạng rỡ sau khi được điều trị. Tôi biết mình cần tìm sự giúp đỡ, và biết rõ cách để tiếp cận nguồn trợ giúp đó.
Thế nhưng, tất cả những hiểu biết ấy chẳng giúp tôi bớt đau đớn. Tôi sống mà dường như đã chết. Tôi mất hẳn khả năng cảm nhận niềm vui; những điều từng khiến tim tôi rộn ràng giờ chẳng còn sức lay động lòng tôi. Mỗi ngày, tôi phải gồng mình để làm những việc tưởng chừng đơn giản, như ngồi dậy khỏi giường hay lái xe đến chỗ làm. Ngày nào cũng vậy, tôi chật vật đấu tranh với một khoảng trống sâu thẳm trong tâm, và tuyệt vọng trước cái điệp khúc đầy ám ảnh cứ vang lên trong đầu: chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Dù biết rõ các phương pháp điều trị trầm cảm, tôi vẫn chẳng có cách nào xóa đi những lời thì thầm đau đớn ấy. Lúc đó, tôi không tin rằng Đức Chúa Trời tồn tại. Và nếu Ngài thật sự không tồn tại, thì quả thật, đời chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Đối diện với điều ác
Giai đoạn trầm cảm đầu tiên của tôi – và cũng là giai đoạn tồi tệ nhất – thực chất là một cuộc chiến thuộc linh. Trầm cảm vốn đã xuất hiện trong gia đình tôi, và với tính cách hay trầm ngâm, tôi luôn là “mảnh đất màu mỡ” để cho nó bám rễ. Thế là, trong một khoảnh khắc khủng hoảng khi làm việc tại phòng cấp cứu, tôi đã bị kéo từ nỗi u sầu vào trong bóng tối chìm sâu dai dẳng không dứt.

Tối hôm ấy, tôi điều trị cho ba thiếu niên bị hành hung: một em bị đánh bằng gậy bóng chày, một em bị dao đâm, và một em bị bắn. Tôi đã cố hết sức để cứu cả ba, nhưng đều thất bại. Khi lảo đảo bước ra khỏi phòng của nạn nhân cuối cùng, niềm tin vốn đã mong manh của tôi nơi Chúa bất chợt tan vỡ như những chiếc lá mùa thu bị gió bão cuốn bay.
Làm sao Đức Chúa Trời có thể cho phép điều ác như vậy xảy ra? – Tôi tự hỏi. Không có nền tảng Kinh Thánh và cũng chẳng hiểu biết Tin Lành, tôi không có câu trả lời cho câu hỏi nhức nhối đó. Sáng hôm sau, tôi lái xe lên núi, đứng trên cây cầu bắc qua sông và cố cầu nguyện. Nhưng không một lời đáp nào xuất hiện trong tâm trí tôi cả. Thế là tôi kết luận rằng Đức Chúa Trời im lặng vì Ngài không tồn tại.
Từ đó, trầm cảm cắm sâu móng vuốt vào tận linh hồn tôi. Tôi không còn thấy mục đích sống, chẳng tìm ra ý nghĩa, và cũng mất hết hy vọng. Mọi thứ quanh tôi như bị phủ một màn sương xám xịt, như thể ai đó đã hút cạn mọi niềm vui và sắc màu. Tiếng nấc mà tôi cố kìm hãm luôn chực nghẹn nơi lồng ngực.
Ngay cả những việc nhỏ nhặt nhất cũng trở nên nặng nề, đau đớn. Và mỗi ngày, khi lặng lẽ chăm sóc những người đang hấp hối, tôi lại nghĩ đến việc quay về cây cầu trên núi ấy… và buông bỏ chính mạng sống mình.
Vĩ đại thay sự thành tín của Ngài
Dù tôi đã chối bỏ Đức Chúa Trời, Ngài vẫn luôn thành tín với tôi bằng ân điển dịu dàng của Ngài. Mỗi tối, khi tôi bị dằn xé bởi niềm thôi thúc rẽ vào cây cầu ấy, Ngài lại khiến tôi nhớ đến người chồng yêu thương của mình.
Dù cơn tuyệt vọng bao trùm tâm trí, tôi vẫn đủ tỉnh táo để biết rằng cái chết của mình sẽ làm chồng mình tan nát. Và thế là, mỗi khi đi ngang ngã rẽ đầy cám dỗ ấy, Chúa lại nhắc tôi về người chồng yêu thương và bao dung đang chờ tôi ở nhà. Thế là tôi hít một hơi thật sâu, và lái xe thẳng về nhà.
Rồi, khi tôi chạm đáy và cuộc sống giờ đây là màn đêm không lối thoát, Đức Chúa Trời đã ban cho tôi điều mà linh hồn tan vỡ của tôi đang cần nhất: chính Ngài.
Lúc đó, tôi đang chăm sóc một bệnh nhân nam bị chấn thương não nghiêm trọng. Các bác sĩ thần kinh đều khẳng định ông sẽ không bao giờ có thể đi lại, nói chuyện, ăn uống hay mỉm cười được nữa. Nhưng trái ngược với mọi dự đoán và hiểu biết y học của đội ngũ y bác sĩ, ông đã hồi phục hoàn toàn sau một lời cầu nguyện nhân danh Đức Chúa Jêsus. Tôi không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích chuyên môn nào cho sự hồi phục này, nhưng tôi biết chắc một điều: qua biến cố ấy, Đức Chúa Trời đã đánh thức tôi về sự hiện diện sống động và quyền tể trị tuyệt đối của Ngài.
Tôi bắt đầu tìm đọc các sách tôn giáo, và cuối cùng, theo lời khuyên của chồng, tôi mở Kinh Thánh ra. Khi đọc đến Rô-ma 5:1–8, tôi đã bật khóc. Suốt hơn một năm, những câu hỏi về nỗi đau đã cuốn trôi niềm hy vọng của tôi. Thế nhưng giờ đây, qua cuốn sách cũ kỹ vốn bị bỏ quên trên kệ suốt nhiều năm tháng, tôi đã gặp gỡ Đức Chúa Trời hằng sống và toàn năng, Đấng có tình yêu thương bền bỉ chẳng hề dứt (Ca Thương 3:23–24). Ngài là Đấng hành động qua chính nỗi đau, kể cả nỗi đau mà Con yêu dấu của Ngài phải chịu, để ích lợi cho chúng ta và làm vinh hiển danh Ngài (Rô-ma 8:28).
Bao lâu nay, tôi đã chối bỏ Đức Chúa Trời và chìm đắm trong bóng tối. Nhưng Ngài chưa bao giờ buông tay tôi (Ê-phê-sô 2:1–9). Trong sự thành tín, bằng tình yêu thương và ân điển tuyệt vời, Ngài đã nhẹ nhàng kéo tôi từ bóng đêm vào trong vùng ánh sáng thiên thượng của Ngài.
Hy vọng để bền đỗ
Tôi không thoát khỏi trầm cảm ngay lập tức. Giống như cách căn bệnh này âm thầm len vào cuộc đời tôi, con đường thoát khỏi bóng tối cũng lâu dài và gian nan lắm. Thậm chí sau khi Đức Chúa Trời đem tôi trở về với Ngài, tôi vẫn cần dùng thuốc chống trầm cảm để có đủ năng lượng và minh mẫn mà làm việc.

Chồng tôi luôn kiên nhẫn và ở bên nâng đỡ tôi, Hội Thánh và mục sư quản nhiệm cũng hướng dẫn và giúp sức cho tôi rất nhiều. Từng bước chậm rãi, với sự giúp đỡ từ chuyên gia, tình yêu thương của bạn bè, cùng Lời Chúa liên tục nuôi dưỡng linh hồn, ánh sáng trong tôi một lần nữa bừng lên. Tôi vui mừng biết bao trước ơn thương xót của Đức Chúa Trời!
Tuy nhiên, ánh sáng ấy không phải lúc nào cũng ở lại mãi. Trầm cảm thường tái phát, cứ âm thầm rình rập đâu đó, chờ cơ hội là ập đến. Tôi lại rơi vào bóng tối sau khi sinh con gái, khi cơ thể tự tạo kháng thể tấn công tuyến giáp. Một lần khác, cơn trầm cảm lại đến bất ngờ, chẳng báo trước, chẳng vì lý do gì rõ ràng, ngay lúc tôi đang ngồi nhìn các con chơi đùa trong sân. Trong cả hai lần đó, các triệu chứng đều nặng nề, đau đớn như lần đầu. Tin nhận Chúa không chữa khỏi căn bệnh trầm cảm tôi, cũng không giúp tôi miễn nhiễm với nó mãi mãi.
Tuy nhiên, đức tin đã ban cho tôi một chiếc neo, một bến cảng an toàn để trú ẩn giữa cơn bão tố. Khi trầm cảm bủa vây, tôi cảm giác sự hiện diện của Chúa dường như xa cách. Nhưng nhờ những lẽ thật được bày tỏ trong Kinh Thánh, tôi biết rằng: dù nhận thức của tôi có bị bóp méo vì bệnh tật, thì sự thật là Ngài vẫn hằng ở cùng tôi (Ê-sai 41:10; Ma-thi-ơ 28:20). Tôi biết Ngài sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi tôi (Phục-truyền Luật-lệ Ký 31:6). Tôi biết trước đây Ngài đã từng đưa tôi qua trũng bóng chết, và Ngài hứa sẽ luôn ở cùng, dẫn tôi trở lại với ánh sáng của Ngài (Thi Thiên 23:4). Những lời hứa, sự bảo đảm cùng tình yêu thương của Đức Chúa Trời chính là sợi dây cứu sinh, mỗi khi nỗi đau làm tôi mờ mắt và ngã lòng.
Bạn thân mến, nếu bóng tối trầm cảm đang bao phủ trên cuộc đời bạn, hãy bám chặt lấy Lời Chúa. Hãy đánh dấu những Thi Thiên bày tỏ lòng thương xót, quyền tể trị, và tình yêu thành tín bền vững của Ngài. Hãy trở lại với Lời Chúa như con nai khát khao tìm về dòng suối mát trong (Thi Thiên 42:1).
Hãy ghi nhớ rằng bạn không hề đơn độc. Sự giúp đỡ luôn sẵn có cho bạn. Bạn có thể trở lại với ánh sáng. Nếu bóng tối ngột ngạt đến mức bạn nghĩ đến việc kết liễu mạng sống mình, hãy trò chuyện với người khác, và nhờ họ giúp bạn gọi đến đường dây hỗ trợ khủng hoảng và phòng chống tự tử, bất kể ngày đêm. Ngoài ra, bạn có thể tìm đến nhiều nguồn trợ giúp khác: bác sĩ, chuyên gia tâm lý, hoặc các trang tâm vấn Cơ Đốc.
Khi trầm cảm phủ vây bạn, thậm chí khi bạn chẳng còn nhìn thấy lối ra, hãy nhớ rằng niềm hy vọng nơi Đức Chúa Trời vẫn còn mãi (1 Phi-e-rơ 1:3–5). Và bạn ơi, hãy ghi nhớ rằng trong Đấng Christ, không có bất cứ điều gì có thể tách bạn ra khỏi tình yêu thương của Ngài (Rô-ma 8:38–39), kể cả những cơn trầm cảm đau đớn nhất.
Bài: Kathryn Butler; dịch: Esther Võ
(Nguồn: desiringgod.org)
bình luận